Viêm họng có rất nhiều nguyên nhân, phần lớn do virus (80%) như adeno, rhino, virus hợp bào đường thở, cúm, sởi... Số còn lại do vi khuẩn gây ra như liên cầu, tụ cầu, phế cầu, H.Influenzae... Nguy hiểm hơn cả là liên cầu khuẩn tan huyết nhóm A vì nó là thủ phạm dẫn đến biến chứng viêm họng gây thấp tim, viêm khớp, viêm thận.
Đáng nói là hầu hết người bệnh khi bị viêm họng thì đều uống kháng sinh, điều này là một sai lầm nghiêm trọng.
Các yếu tố nguy cơ gây viêm họng là thay đổi thời tiết, lạnh quá, ẩm quá, bụi, khói thuốc, rượu, hóa chất.
Viêm họng cấp tính
Viêm họng đỏ: Sốt, mệt mỏi, thường sốt đột ngột 39-40 độ C, đau mình mẩy, kém ăn, trẻ em quấy khóc. Nếu do nhiễm khuẩn thì các biểu hiện nhiễm khuẩn khá rõ rệt như môi khô, lưỡi bẩn, mạch nhanh, bộ mặt bơ phờ mệt mỏi.
Người bệnh thấy đau họng, rát họng khi uống nước hoặc nuốt nước bọt, nhưng với các chất rắn nuốt ít đau hơn, bệnh nhân khó nuốt, rát họng. Ho là dấu hiệu thứ hai hay gặp hơn cả, có thể ho từng cơn, ho có đờm, nhầy, lúc đầu trắng sau đặc vàng có mùi hôi, thay đổi tiếng nói. Cụ thể: giọng không được trong, hơi khàn, có khi khàn hẳn. Toàn bộ niêm mạc họng đỏ rực, amiđan sưng to, đỏ. Hạch ở góc hàm sưng đau.
Viêm họng trắng: Phần lớn là viêm họng bạch hầu và viêm họng vincent. Ở bệnh bạch hầu, bệnh nhân sốt không cao nhưng có biểu hiện nhiễm độc khá rõ rệt như mặt xanh tái, mệt mỏi, bơ phờ, đái ít; nuốt đau, nuốt vướng, ho vừa có đờm, tiếng có thể thay đổi. Họng, đặc biệt trên mặt amiđan có giả mạc màu trắng bám chắc.
Viêm họng vincent thường gặp ở người lớn tuổi hoặc người già, giả mạc thường mỏng, dễ bong, khi bóc giả mạc phía dưới là một lớp loét nông.
Ngoài ra, viêm họng trắng thường gây nổi hạch ở vùng cổ.
Viêm họng mạn tính
Là một bệnh rất phổ biến ở mọi lứa tuổi; nguyên nhân chủ yếu lại là các yếu tố như rượu, thuốc lá, hơi độc, khói, bụi. Các triệu chứng lâm sàng thường ít, không ảnh hưởng đến toàn thân, không sốt, người chỉ hay mệt mỏi. Dấu hiệu quan trọng nhất là rát họng, nuốt vướng, đặc biệt ho từng cơn hoặc liên tục, ho nhiều, ho khan có thể có ít đờm làm bệnh nhân rất khó chịu phải khạc nhổ suốt ngày.
Viêm họng có thể gây các biến chứng như áp xe, viêm tấy quanh họng-amiđan (trẻ nhỏ có thể bị áp xe thành sau họng); viêm mũi, viêm xoang (đặc biệt ở trẻ em là viêm tai giữa - biến chứng rất hay gặp, nhiều khi không phát hiện được).
Ngoài ra, viêm họng còn lan xuống thanh quản gây viêm thanh quản hoặc viêm thanh-khí-phế quản, viêm phế quản hoặc phổi. Biến chứng xa là viêm cầu thận, viêm khớp, viêm màng ngoài tim...
Về điều trị, nếu viêm họng cấp tính do virus thì không cần dùng kháng sinh, chỉ cần các thuốc hạ nhiệt như efferangan, paracetamol, aspegic (chỉ dùng khi nhiệt độ lớn hơn 38 độ C). Dùng các thuốc giảm ho như siro phenergan, ho bổ phế, theralen...
Với viêm họng do vi khuẩn, phải dùng kháng sinh dựa vào kháng sinh đồ dùng kháng sinh 5-7 ngày. Đặc biệt với viêm họng bạch hầu, phải chuyển vào các khoa truyền nhiễm, không điều trị tại nhà. Ngoài việc dùng kháng sinh đúng liều, phải dùng giải độc tố để tránh biến chứng tim, thận. Các thuốc tại chỗ: Xông họng bằng các loại kháng sinh, kháng viêm. Ngoài ra, có thể chấm họng bằng các loại thuốc như glyxerin borat.
Với viêm họng mạn tính, ngoài việc súc họng bằng các dung dịch kiềm để đảm bảo độ pH họng, có thể can thiệp bằng cách đốt hạt bằng muối bạc (NO3Ag), axit chromic, đốt điện, đốt lazer CO2. Tuy nhiên việc đốt cần thận trọng vì chỉ được đốt hạt, không được gây tổn thương niêm mạc họng.